NHÀ LÀM VIỆC ĐƠN VỊ VĂN THƯ (1973-1975)

Thông tin chi tiết

Đây là nơi tiếp nhận và chuyển đi các loại văn bản cấp trên và cấp dưới. Tại đây, Đơn vị Văn thư đã sử dụng thùng đạn làm bàn để làm việc (máy đánh chữ cũng đặt trên thùng đạn mà đánh văn bản). Khi chạy giặc, thùng đạn là phương tiện để chứa tài liệu, tiện lợi cho di chuyển và cất giấu tài liệu (thùng đạn ngăn nước tốt). Tại đây, Đơn vị Văn thư đã viết nhiều tài liệu “bạch chỉ” để chyển cấp trên và cấp dưới. Nguyên liệu để viết “bạch chỉ” là những cặp hóa chất hay vị thuốc Bắc phù hợp, cụ thể. Nơi viết, dùng chất A để viết và nơi nhận dùng chất B để mở (chất A tương ứng chất B trong cặp hóa chất). Giấy để viết “bạch chỉ” thì dùng quyển tập mới, nếu là mùa học sinh đi học hoặc giấy trang trí trên bàn thờ, tủ thờ, nếu là mùa Tết đến. Tức là, hóa chất và giấy để “bạch chỉ” chỉ luôn được thay đổi theo thời gian. Việc vận chuyển “bạch chỉ” từ nơi này đến nơi khác thì có thể đi công khai, trong khi vận chuyển các văn bản thông thường khác (dạng viết tay hoặc đánh máy) thì phải đi bí mật mới có được sự an toàn. Việc ngủ nghỉ tại nhà này không nhiều người. Nơi nghỉ là những bộ vạt tre hoặc tràm con đặt trên các chân trụ và hai đà ngang (ban ngày tháo gỡ ra và treo gọn lên vách). Người siêng và chịu khó thì cắt đưng lót lưng nằm, coi như ngủ nệm. Thời kỳ này, Đơn vị Văn thư hầu hết là những đồng chí trẻ tuổi, ngoài nhiệm vụ chính, các đồng chí đã đẩy mạnh phong trào tự túc, cải thiện bữa ăn và đời sống trong căn cứ (mò bắt tôm từ rạch Xẻo Quít để làm nhân bánh, đặt trúm bắt lươn, gài rập bắt chuột, thừa ăn phải làm khô chuột dự trữ…)

CLERICAL UNIT'S WORKPLACE (1973-1975)

Detailed information

This place received and transferred documents between superiors and subordinates. Here, the Clerical Unit used ammunition chests as desks to work (typewriters were also put on the ammunition chests to type letters). When evacuating, ammunition chests played a role as detailed containers, which were convenient for transporting and hiding details (they could prevent water well). Here, the Clerical Unit wrote many "bạch chỉ” to transfer to superiors and subordinates. The materials for writing "bạch chỉ" were specific pairs of chemicals or Chinese medicines. The writer used substance A to write and the receiver used substance B to open (substance A corresponded to substance B in the chemical pair). Paper to write "bạch chỉ" was made from new notebook, if it was in back-to-school season, or decorative paper on the altar and worship cabinet if it was the coming Tet season. In other words, chemicals and paper for “bạch chỉ” only changed from time to time. The transportation of “bạch chỉ” from one place to another can be done in public, while the transportation of other ordinary documents (written or typed) must go secretly to be safe. Not many people slept at this house. The resting-place was sets of bamboo or melaleuca beds placed on the pedestals and two collar beams (disassembled and neatly hung on the wall during the day). Industrious and hardworking people cut the green mangrove consider it as a mattress to lie down, and. During this period, the Clerical Unit were mostly young comrades, in addition to the main task, the comrades promoted self-sufficiency movement, improved meals and lifestyle in the base (catching shrimp from Xeo canal to make cake filling, trapping eels and mice, the leftover must be made into dried mouse meat as provision...)

Szavazás megjelenítő